Khoa Nông học
Hội trường 50 năm Tuyển sinh 2021 - Khoa Nông họcTuyển sinh 2019 - Khoa Nông học
WEBSITE CÁC ĐƠN VỊ
Trang chủ NCKH
01/11/2013 21:29 - Xem: 3488

TÍNH CẤP THIẾT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH CANH TÁC SẮN BỀN VỮNG Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM

Ứng dụng và cải tiến một số biện pháp kỹ thuật canh tác bền vững, với giải pháp kỹ thuật phù hợp những địa phương đã nghiên cứu đã đưa được năng suất lên gấp 2 - 3 lần qua đó giảm được áp lực về nhu cầu đất đai để sản xuất và duy trì, nâng cao được sức sản xuất của tài nguyên đất đai

1- Tính cấp thiết xây dựng mô hình sắn

1.1. Sắn là cây loại dễ trồng, đầu tư thấp, khối lượng lớn, có nhiều công dụng trong chế biến nhiên liệu sinh học, tinh bột, thức ăn gia súc, công nghiệp thực phẩm, màng phủ sinh học, bao bì, hồ vải và phụ gia dược phẩm. Việt Nam hiện có 68 nhà máy chế biến tinh bột với tổng công suất 8,9 triệu tấn củ tươi/năm, là nước xuất khẩu sắn lát và tinh bột sắn đứng thứ hai trên  thế giới sau Thái Lan. Đặc biệt, hiện nay, cây sắn trở thành cây nhiên liệu sinh học có lợi thế cạnh tranh cao và tốt cho môi trường. Với 6kg sắn củ tươi chế biến được 1 lít cồn 99,6% để làm xăng pha cồn E5 hoặc E10. Toàn quốc hiện có 13 nhà máy chế biến nhiên liệu sinh học. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, năm 2011,  diện tích trồng sắn của nước ta là 559,80 nghìn ha, năng suất đạt 17,81 tấn/ ha, sản lượng đạt 9,87 triệu tấn. So với năm 2000, sản lượng sắn đã tăng 4,96 lần, năng suất sắn đã tăng 2 lần và  tốc độ tăng trung bình mỗi năm 14,7%. Có được kết quả này là do nhiều yếu tố, nhưng quan trọng hơn cả là trong sản xuất người trồng sắn đã chọn giống mới và áp dụng các biện pháp kỹ thuật. Mặc dù vậy, trong sản xuất sắn hiện nay cũng còn gặp nhiều khó khăn như: Diện tích sắn bị thu hẹp do cạnh tranh bởi các cây trồng khác; Năng suất sắn còn thấp hơn so với tiềm năng của cây sắn (45 – 50 tấn/ha). So với năng suất sắn của Ấn Độ thì năng suất sắn của Việt Nam mới chỉ đạt được 59,3% (30 tấn/ha).

Nguyên nhân chính là do sắn trồng trên đất dốc không hoặc rất ít áp dụng các biện pháp chống xói mòn bảo về đất. Kỹ thuật canh tác sắn lạc hậu chủ yếu là trồng quảng canh. Vì người nông dân vẫn quan niệm cây sắn là cây dễ trồng nên không bón phân hoặc nếu có bón phân thì không đầy đủ và mất cân đối, dẫn đến năng suất không cao. Giống sắn địa phương năng suất thấp và đã bị thoái hoá. Kỹ thuật sản xuất chưa hợp lý. Các khâu làm đất, mật độ trồng, bảo quản hom giống, lựa chọn hom khi trồng cũng như chăm sóc sắn còn rất tuỳ tiện. Trong khi đó, xét mặt hiệu quả kinh tế, theo kết quả đánh giá của CIAT năm 2009 ở Việt Nam số lượng hộ nông dân áp dụng kết quả nghiên cứu kỹ thuật mới từ năm 2003 - 2008 là: 22.898 hộ, với diện tích trồng sắn là 9. 228 ha, lợi nhuận tăng thêm là 2,2 triệu đô la Mỹ. Thực tế này cho thấy việc cải tiến giống sắn kết hợp với áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất đã nâng cao thu nhập cho nông dân (Tran Ngoc Ngoan and R.H.Howeler 2007, Tran Ngoc Ngoan 2008). Điển hình là ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, khi bắt đầu thực hiện chương trình nghiên cứu phát triển sản xuất sắn bền vững do CIAT tài trợ, năng suất sắn bình quân mới chỉ đạt 11,0 tấn sắn củ tươi/ha (2000), đến nay đã đạt tới 30 tấn/ha (ổn định hàng năm). Trung bình khối lượng sắn lát khô đạt 12 tấn sắn /năm/1 hộ dân và thu nhập đạt trung bình 70.000.000đ/năm từ cây sắn. Có những hộ dân đạt tới 30-35 tấn sắn lát khô và thu nhập 150 - 175 triệu đồng/năm.

Tổng kết 10 năm triển khai dự án FPR (Nông dân tham gia nghiên cứu phát triển bền vững cây sắn) tại 03 nước Châu Á (Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam), theo số liệu thống kê của tổ chức FAO, năng suất sắn của Trung Quốc tăng 0,79 tấn/ha và đạt giá trị tăng thêm là 5,4 triệu đôla Mỹ. Thái Lan, năng suất sắn tăng 5,49 tấn/ha ( tăng 40%) và giá trị tăng thêm là 123 triệu đôla Mỹ. Việt Nam, năng suất sắn tăng 5,84 tấn/ha ( tăng 69%) và đạt giá trị tăng thêm là 54,3 triệu đô la Mỹ, trong khi đó cả Châu Á, năng suất tăng là 3,68 tấn /ha (28%) và thu nhập tăng thêm ước đạt  318 triệu đô la Mỹ (FAO 2007, 2010; Reinhardt.H.Howeler 2008).

1.2. Nhiên liệu sinh học là loại năng lượng có khả năng tái tạo thân thiện với môi trường. Ví dụ như diêzel sinh học không chứa lưu huỳnh và các hợp chất thơm nên nhiên liệu sinh học ít gây ô nhiễm môi trường hơn các loại nhiên liệu truyền thống khác như than đá, sản phẩm dầu mỏ. Ở nước ta, tốc độ đô thị hoá nhanh và gia tăng nhanh chóng các phương tiện giao thông làm không khí bị ô nhiễm trầm trọng. Theo Báo cáo triển vọng môi trường toàn cầu 4 do chương trình môi trường liên hợp quốc (UNEF) công bố ngày 26/10/2007, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trong số sáu thành phố ô nhiễm nhất thế giới. Hơn nữa, nhiên liệu sinh học góp phần cân đối nhiên liệu, cải thiện cân bằng thương mại, nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất ngành nông nghiệp. Đặc biệt, việc sử dụng nhiên liệu sinh học hạn chế thấp nhất chi phí thay thế hoặc cải tiến động cơ, sử dụng nhiên liệu sinh học rất đơn giản thuận tiện và giá thành thường thấp hơn sử dụng năng lượng hoá thạch – nguồn tài nguyên đang bị cạn kiệt rất nhanh chóng. Vì vậy, sử dụng năng lượng có khả năng tái tạo sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng cho mỗi quốc gia. Ví dụ, ở nước ta, theo báo cáo của Viện Năng lượng, trong 10 năm qua việc khai thác năng lượng sơ cấp tăng trung bình 16,4% và sử dụng năng lượng này tăng bình quân hơn 10%. Tốc độ tăng trưởng năng lượng đạt 11%, cao hơn tăng trưởng kinh tế 1,46 lần. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế và với dự trữ năng lượng hoá thạch hiện có thì khả năng khai thác dầu khí cũng chỉ đáp ứng trong vòng 30-40 năm.

Về mặt xã hội, nhiên liệu sinh học góp phần tạo công ăn việc làm. Ví dụ chương trình sản xuất ethanol của Chính phủ Brazil đã tạo ra gần 1 triệu việc làm cho người lao động. Điều này rất có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển vì phát triển nhiên liệu sinh học ít nhiều còn gắn với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm trong xã hội như đối với người nông dân trồng cây nguyên liệu cho sản xuất nhiên liệu sinh học. Tại Indônêxia dự báo năm 2010, ngành công nghiệp sản xuất nhiên liệu sinh học sẽ tạo ra khoảng 3,5 triệu việc làm. Nước ta, hơn 40% GDP là từ nông nghiệp, một bộ phận không nhỏ đồng bào ta, chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa và đất đai không thuận lợi để sản xuất nông nghiệp nên đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn. Phát triển nhiên liệu sinh học từ cây trồng truyền thống là sắn sẽ là cơ hội tạo thu nhập cho nông dân góp phần xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nhà máy sản xuất ethanol khi đi vào hoạt động mỗi nhà máy sẽ thu mua ổn định sắn lát cho 15 nghìn hộ trồng sắn tại các xã vùng cao của các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Do đó cây sắn sẽ không chỉ là cây giúp xoá đói giảm nghèo mà còn là cây trồng giúp cải thiện đời sống cho nông dân ở các vùng trồng sắn chính của nước ta.

Chính vì những lợi ích thiết thực của nhiên liệu sinh học nên nhiều nước trên thế giới đã xây dựng các chương trình, ban hành các chính sách thúc đẩy sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học theo hướng bền vững. Thực tế, theo báo cáo của UNEF về tình hình nhiên liệu sinh học toàn cầu hiện nay cho thấy năm 2007, nhiên liệu sinh học chiếm 1,8% nhiên liệu giao thông với sản lượng ethanol tăng gấp 3 lần so với năm 2000 và sản xuất dầu diezel sinh học tăng lên 10 lần. Nhiệm vụ pha trộn nhiên liệu sinh học vào nhiên liệu hoá thạch cho xe đã được ban hành tại 17 nước vào năm 2006, chủ yếu đòi hỏi phải pha trộn 10-15% ethanol hoặc 2-5% dầu diezel sinh học vào xăng. Nhiên liệu sinh học những năm gần đây đã trở thành một thị trường rộng lớn với một nỗ lực thương mại mới đang được hình thành. Năm 2008, Brazil đã xuất khẩu 5 tỷ lít ethanol và đầu tư vào nhiên liệu sinh học đã tăng lên 4 tỷ đô la Mỹ so với năm 2007. Thị trường nhiên liệu sinh học đang tăng nhanh ở Mỹ, EU, Brazil và Trung quốc. Sản lượng ethanol năm 2009 toàn cầu đạt 73,9 triệu lít, năm 2010 sẽ tăng 16,2% và đạt mức 85,9 tỷ lít. Theo dự báo của hiệp hội nhiên liệu tái tạo toàn cầu (GRFA) sản lượng ethanol sẽ đạt hơn một triệu thùng/ ngày và sẽ thay thế 370 triệu thùng dầu năm 2010. Riêng Mỹ, năm 2010 sẽ sản xuất 45 tỷ lít /năm và là quốc gia số một thế giới về sản xuất ethanol (Biofuels International – Industry News, 22 March,2010).

        Cùng với xu hướng chung của thế giới và với những lợi ích về cả 3 lĩnh vực của sử dụng nhiên liệu sinh học mang lại, ngày 20 tháng 11 năm 2007, Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015 tầm nhìn đến năm 2025 với mục tiêu: Phát triển nhiên liệu sinh học, một dạng năng lượng mới tái tạo được để thay thế một phần nhiên liệu hoá thạch truyền thống góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường. Các nhà máy chế biến cồn sinh học đã và hiện đang xây dựng tại Quảng Nam, Phú Thọ, Quảng Ngãi và Bình Phước với công suất mỗi nhà máy 100 triệu lít /năm, tổng công suất 04 nhà máy là 400 triệu lít/năm. Khi các nhà máy sản xuất ethanol đi vào hoạt động sẽ tiêu thụ một khối lượng sắn rất lớn. Dự kiến năm 2012, sẽ tiêu thụ 16% sản lượng sắn, năm 2015 sẽ chiếm 35%, năm 2020 chiếm 41%, đến năm 2025 chiếm 48% (các tính toán này dựa vào dự báo nhu cầu xăng tăng 8,5%/ năm, sản lượng sắn tăng 5%/năm).

 1.3.Từ những thực tế phát triển sản xuất sắn của nước ta trong những năm qua, những kết quả của nghiên cứu phát triển cây sắn trong khu vực và nhu cầu của thị trường đã đặt cây trồng này trước những cơ hội và thách thức lớn. Sản xuất cấp thiết đòi hỏi phải có những giống sắn mới phù hợp chế biến nhiên liệu sinh học và tinh bột để thay thế cho những giống sắn có năng suất thấp. Áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác hợp lý nâng cao năng suất khai thác tiềm năng sinh học của cây trồng chịu hạn có tiềm năng sinh học cao nhất trong các cây chiụ hạn. Theo nhiều chuyên gia nghiên cứu, cây sắn là cây trồng cung cấp tinh bột cho vùng khô hạn thích nghi với hoàn cảnh biến đổi khí hậu của thế kỷ 21.

1.4. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật canh tác sắn bền vững đã cho phép chuyển một phần diện tích đất trồng sắn sang canh tác cây trồng khác mà vẫn không làm giảm sản lượng sắn, không những đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy chế biến mà còn nâng cao thu nhập cho người sản xuất đồng thời đẩy nhanh tiến tình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn.

2. Một số đề xuất xây dựng mô hình canh tác sắn bền vững.

2.1. Lựa chọn một số giống sắn mới có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng.

 2.2.Ứng dụng và cải tiến một số biện pháp kỹ thuật canh tác bền vững (Độ dốc ảnh hưởng đến xói mòn, các loại cây che phủ đất, trồng xen, trồng hàng rào xanh theo đường đồng mức, kết hợp giữa lên luống theo đường đồng mức với băng chắn theo đường đồng mức, hoặc kết hợp giữa trồng xen với có hàng rào xanh theo đường đồng mức. ..), với giải pháp kỹ thuật phù hợp những địa phương đã nghiên cứu đã đưa được năng suất lên gấp 2 - 3 lần qua đó giảm được áp lực về nhu cầu đất đai để sản xuất và duy trì , nâng cao được sức sản xuất của tài nguyên đất đai Áp dụng các kỹ thuật trồng, chăm sóc hợp lý như: Thời vụ trồng, Làm đất, bón phân cân đối,  mật độ trồng….

2.3. Kết hợp giũa xây dựng mô hình theo phương pháp tham gia của tổ chức cộng đồng địa phương và người dân với đào tạo, tập huấn kỹ thuật tại chỗ vừa nâng cao được nhận thức của cộng đồng và vừa nâng cao được kỹ năng của chính người dân tạo ra nền tảng vững chắc cho quá trình tiếp nhận và nhân rộng lan toả tiến bộ kỹ thuật. Thông qua kết quả các hình thức tham gia phát triển kỹ thuật mới sẽ là giải pháp hữu hiệu nhất nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế sản xuất sắn cũng như bảo vệ tài nguyên đất, thân thiện với môi trường là vấn đề đang được sự quan tâm của cả cộng đồng. Áp dụng các kết quả của dự án không những góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống tạo ra mô hình tốt để khuyến cáo nhân rộng mà còn hướng tới nền sản xuất hàng hoá nâng cao thu nhập cho nông dân vùng cao một cách bền vững. 

 2.4. Giám sát, tham gia đánh giá và lựa chọn kết quả phù hợp nhất với điều kiện của vùng và điều kiện của người dân. Thành phần tham gia là những người đại diện cho các cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương các cấp, hội nông dân, hội phụ nữ và nông dân. Việc tham gia giám sát và đánh giá kết quả xây dựng mô hình kỹ thuật canh tác bền vững của cộng đồng sẽ lựa chọn được giống và giải pháp kỹ thuật thích hợp nhất với điều kiện của địa phương.

2.5. Các biện pháp kỹ thuật canh tác sắn trên đất dốc được nghiên cứu và được áp dụng nhằm hạn chế xuống thấp nhất lượng đất bị xói mòn góp phần duy trì và cải tạo đất thông qua cố định đạm tự do và qua tàn dư thân lá của cây họ đậu trả lại cho đất khi thu hoạch, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường (xói mòn , rửa trôi). Mặt khác, giúp cho nông dân địa phương có chế độ canh tác bền vững lâu dài góp phần hạn chế việc khai thác đất bừa bãi giúp cho việc bảo vệ môi trường sinh thái một cách có hiệu quả. Hướng đến người nông dân đến việc xây dựng và thực hiện các quy định của địa phương (hương ước) trong quá trình sử dụng tài nguyên đất dốc bền vững.

    PGS.TS. Nguyễn Viết Hưng- Khoa Nông học Trường ĐHNLTN

 

CÁC BÀI VIẾT CÙNG CHUYÊN MỤC
Web các đơn vị
Tuyển sinh 2019 - Khoa Nông học
Khoa Nông học
Tuyển sinh 2020 - Khoa Nông học
Sinh viên khoa Nông học với Nông nghiệp 4.0
Vân nghệ chào mừng 50 năm thành lập
Việc làm kỹ sư Nông học
Tuyển sinh năm 2021
Đang online 1421
Hôm nay 144
Hôm qua 3284
Tuần này 144
Tuần trước 23137
Tháng này 3774209
Tháng trước 4969151
Tất cả 48188385

Lượt truy cập: 48188446

Đang online: 1447

Ngày hôm qua: 3284

Phụ trách kỹ thuật: 0987. 008. 333

online

Chào mừng bạn đến với hệ thống trả lời hỗ trợ trực tuyến.
Để liên hệ với các bộ phận xin vui lòng điền đầy đủ vào mẫu kết nối

Họ và tên


Địa chỉ Email


Yêu cầu hỗ trợ