Chuyên đề
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT THAM NHŨNG
1. Khái niệm: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Theo khái niện này hành vi tham nhũng gồm 3 yếu tố cơ bản là: Yếu tố chức vụ, quyền hạn; yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn và yếu tố vụ lợi.
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm:
- Cán bộ, công chức, viên chức.
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (có thể được hưởng lương hoặc không).
2. Bản chất tham nhũng
Tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng với những dấu hiệu sau:
- Người có chức vụ, quyền hạn trộm cắp, tham ô tài sản của nhà nước;
- Lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng quá đáng thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình;
- Tạo ra sự xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống... và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng.
Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng như sau:
- Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ, quyền hạn làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể.
- Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.
- Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
Về bản chất, tham nhũng là một hiện tượng xã hội phản ánh các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền thống, tập quán của một dân tộc, một quốc gia; tham nhũng bao gồm những hành vi nguy hiểm ở mức độ cao cho xã hội, nhà nước và nhân dân. Hậu quả do tham nhũng gây ra cực kỳ lớn cho xã hội, hậu quả này không phải chỉ là những thiệt hại về vật chất với nhiều tỷ đồng, mà điều quan trọng hơn nó làm tha hoá một bộ phận của cán bộ, công chức của bộ máy nhà nước, trong tổ chức Đảng và các đoàn thể xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước, gây nên sự bất bình, oán thán trong nhân dân đối với Đảng, nhà nước và chế độ xã hội, làm giảm hiệu lực quản lý của nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ chính trị - xã hội.
Tham nhũng là tệ nạn mang tính chất toàn cầu, tuy nhiên không phải ở bất kỳ nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng giống nhau mà ở mỗi quốc gia đều có sự khác biệt.
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG, GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
I. Đặt vấn đề
- Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời và phát triển của nhà nước, tồn tại ở mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kể cả nước giàu và nước nghèo, nước phát triển, đang phát triển hay kém phát triển.
- Ở Việt Nam, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tình trạng tham nhũng, lãng phí cũng diễn ra khá phức tạp trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế, là một thách thức lớn cản trở công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nó gây ra nhiều hậu quả to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường…, làm suy yếu bộ máy Đảng và Nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ.
- Từ nhiều năm nay, nhất là từ sau Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khoá VIII, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí và đã thu được một số kết quả nhất định, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, tình hình tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng, phổ biến ở hầu hết các ngành, các cấp, các lĩnh vực, đã gây bức xúc lớn trong xã hội và làm gay gắt thêm đòi hỏi chính đáng của toàn đảng, toàn dân là phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”.
II. Nội dung, quan điểm, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí
1. Đánh giá tình hình phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong thời gian qua và nguyên nhân
1.1. Đánh giá tình hình
Trong Nghị quyết Trung ương 3, Đảng ta đánh giá: “Trong những năm qua, nhất là từ sau Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khoá VIII, Đảng và nhà nước ta đã tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nhiều cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Nhiều vụ án tham nhũng, trong đó có các vụ án lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng đã được phát hiện, xử lý.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.
1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu của những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, là:
- Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, còn nhiều sơ hở, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung.
- Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng, còn nhiều khuyết điểm, chất lượng và hiệu quả chưa cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan, tổ chức chưa được xác định rõ ràng, cụ thể, còn trùng lặp hoặc bị phân tán.
- Nhiều tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng, lãng phí nên lãnh đạo không chặt chẽ, thiếu kiểm tra, đôn đốc, thậm chí còn nể nang, né tránh, dung túng, bao che cho tham nhũng, lãng phí; chưa thực sự dựa vào dân và chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.
- Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn nhiều yếu kém. Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cấp cao còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm.
2. Về mục tiêu, quan điểm
2.1. Mục tiêu
Trung ương đề ra mục tiêu phòng, chống tham nhũng trong những năm tới như sau:
“Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế- xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”.
Tuy Nghị quyết không ấn định thời gian thực hiện và thời điểm hoàn thành, nhưng chúng ta cần xác định những mục tiêu nêu trong Nghị quyết chủ yếu được thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội X. Nếu đề ra mục tiêu quá cao thì sẽ khó đạt được. Mục tiêu như trên là tương đối mạnh mẽ nhưng có tính khả thi và sát với thực tế.
Mục tiêu cụ thể của Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020:
- Tập trung xây dựng và tổ chức thi hành các văn bản áp dụng pháp luật.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước;
- Hoàn thiện thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch;
- Tính trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, sức chiến đấu và hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng được nâng cao;
- Nâng cao nhận thức, vai trò của xã hội về tham nhũng, về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng.
2.2. Quan điểm
Nghị quyết TW 3 (khóa X) đề ra 5 quan điểm sau:
1- Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự.
2- Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
3- Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa, vừa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu.
4- Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm.
5- Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài.
Nội dung những quan điểm nêu trên đó là sự kế thừa và phát triển những quan điểm được nêu trong Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 15/51996, của Bộ Chính trị, trong đó đã khẳng định và nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đảng phải tập trung lãnh đạo và là người nắm giữ ngọn cờ đấu tranh chống tham nhũng. Nghị quyết cũng yêu cầu phải kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trong phòng, chống tham nhũng.
3. Về chủ trương, giải pháp
3.1 Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Bên cạnh việc tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Nghị quyết đề ra những quy định mới như:
- Gắn với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” về chống tham ô, lãng phí, quan liêu, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
- Tất cả đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, phải nêu gương về đạo đức, lối sống và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí;
- Mở chuyên mục tuyên truyền, giáo dục trên báo, đài.
3.2. Nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng viên, tăng cường vai trò của chi bộ trong quản lý, giáo dục đảng viên.
Đảng ta là đảng cầm quyền, muốn chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả thì Đảng phải lãnh đạo chặt chẽ cuộc đấu tranh; đồng thời, các tổ chức đảng và đảng viên phải gương mẫu đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Trong hệ thống tổ chức Đảng thì chi bộ có vai trò rất quan trọng vì là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, đảng viên và mọi đảng viên đều phải sinh hoạt trong chi bộ.
Để nâng cao vai trò của các tổ chức đảng và đảng viên, nhất là vai trò của chi bộ, Nghị quyết có các quy định cụ thể như sau:
- Các tổ chức đảng và đảng viên, cán bộ công chức phải đề cao tinh thần tự tôn, tự hào về dân tộc, về truyền thống cách mạng của Đảng, từ đó tự tu dưỡng bản thân, đi đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí .
- Chi bộ đảng phải nắm chắc việc thực hiện nhiệm vụ và quan hệ xã hội của đảng viên trong chi bộ, giáo dục, nhắc nhở và kịp thời kiểm tra, xử lý những trường hợp có dấu hiệu vi phạm, không được dung túng, bao che tham nhũng, lãng phí.
- Trong trường hợp có hành vi tham nhũng, lãng phí cần được xử lý cấp uỷ đảng phải tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chức năng thực thi pháp luật, đồng thời lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị; thực hiện nghiêm túc kết luận xử lý gắn với củng cố nội bộ.
- Nâng cao tính chiến đấu, thực hiện dân chủ, công khai trong tự phê bình và phê bình theo phương châm " trên trước, dưới sau, trong trước, ngoài sau". Công khai kết quả tự phê bình, kiểm điểm.
- Trong sinh hoạt đảng và nhận xét, đánh giá đảng viên hàng năm phải có nội dung về phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Tổ chức đảng phải lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội- nghề nghiệp làm tốt vai trò giám sát, phản biện.
- Hàng năm, cán bộ chủ chốt cấp xã phải trực tiếp tự phê bình và phê bình tại hội nghị đại diện nhân dân do Mặt trận Tổ quốc tổ chức.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế chất vấn trong sinh hoạt Đảng.
3.3- Tiếp tục hoàn thiện công tác cán bộ phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí .
Một trong những nguyên nhân của tình hình tham nhũng, lãng phí là công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn nhiều yếu kém. Do đó, tiếp tục hoàn thiện công tác cán bộ, trước hết là khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót trong công tác này, là một chủ trương, giải pháp rất cần thiết để phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết đề ra 4 loại việc cần thực hiện là: sửa đổi, bổ sung các quy định về công tác cán bộ; tiếp tục cải cách chế độ tiền lương; minh bạch tài sản, thu nhập của đảng viên, cán bộ công chức; xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử nhằm bảo đảm sự liêm chính của đảng viên, cán bộ, công chức. Nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định về công tác cán bộ, bảo đảm công khai, dân chủ.
Nghị quyết yêu cầu phải chấn chỉnh công tác thi tuyển và tiếp nhận cán bộ, công chức đi đôi với việc tăng cường thanh tra và xử lý tham nhũng trong thi tuyển. Nghị quyết đề ra những quy định cụ thể, đáng chú ý như sau:
- Bổ sung quy định về việc những người có quan hệ gia đình không được cùng làm một số công việc dễ xảy ra tham nhũng.
- Thực hiện nghiêm túc quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, về việc chuyển đổi vị trí công tác của một số công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước, mở rộng dần diện chuyển đổi vị trí công tác trong toàn hệ thống chính trị.
- Thực hiện thí điểm, tiến tới mở rộng thi tuyển công khai một số chức danh cán bộ quản lý cấp phòng, cấp vụ, nhất là người đứng đầu bệnh viện, trường học, cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp của Nhà nước. Cán bộ, công chức dự kiến được bổ nhiệm, đề bạt phải trình bày chương trình hành động trước khi ghi phiếu tín nhiệm.
- Xem xét, xử lý trách nhiệm người giới thiệu, người bổ nhiệm, đề bạt cán bộ đã bao che hành vi tham nhũng, lãng phí của người được bổ nhiệm, đề bạt.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về bổ nhiệm, phân cấp quản lý cán bộ theo hướng tăng quyền hạn cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức gắn với trách nhiệm cá nhân trong việc lựa chọn, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cấp phó và cán bộ cấp dưới trực tiếp trên cơ sở thảo luận dân chủ trong tập thể lãnh đạo.
- Xây dựng cơ chế thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm thủ trưởng cơ quan hành chính cấp dưới.
- Khuyến khích việc chủ động từ chức vì lý do trách nhiệm.
Thứ hai, cải cách chế độ tiền lương và việc trả lương.
- Đẩy nhanh hơn tiến độ thực hiện Đề án cải cách chế độ tiền lương, xây dựng lộ trình cải cách tiền lương trong những năm tới theo hướng tăng thu nhập cao hơn cho cán bộ, công chức.
- Giao quyền tự chủ về tài chính, biên chế và giao khoán kinh phí hoạt động cho các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp có đủ điều kiện.
- Xây dựng cơ chế tiền lương riêng cho công chức hành chính.
- Các đơn vị làm nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công cộng được chủ động nâng cao thu nhập chính đáng cho đội ngũ công chức, viên chức trên cơ sở bảo đảm cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho mọi công dân và công khai thu các khoản phí tương xứng với chất lượng dịch vụ được người thụ hưởng chấp nhận.
- Tăng lương hoặc tăng mức phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp và cải thiện điều kiện làm việc cho các ngành kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, công an, kiểm sát, toà án và một số ngành dễ phát sinh tham nhũng; đồng thời, tăng cường chế độ trách nhiệm và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
- Thí điểm và tiến tới thực hiện cơ chế trả lương và các khoản thu nhập khác của cán bộ, công chức qua các tài khoản mở tại ngân hàng, kho bạc, trước hết là ở những nơi có điều kiện.
- Khuyến khích cán bộ, công chức phải chuyển các khoản tiền tích luỹ vào tài khoản.
Thứ ba, bảo đảm minh bạch tài sản thu nhập của đảng viên, cán bộ, công chức.
Đây là một biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong phòng ngừa tham nhũng, Nghị quyết yêu cầu trước hết, đảng viên, cán bộ, công chức thuộc diện kê khai tài sản theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, phải thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản và xác minh bản kê khai theo quy định của Luật, đồng thời có những quy định nghiêm hơn đối với đảng viên như sau:
- Xây dựng và thực hiện cơ chế đảng viên là cán bộ, công chức thuộc diện phải kê khai tài sản theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng phải công bố trong chi bộ bản kê khai, là cấp uỷ viên thì còn phải công bố trong cấp uỷ;
- Đảng viên là cán bộ, công chức thuộc diện phải kê khai tài sản theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng phải giải trình nguồn gốc tài sản của mình theo yêu cầu của tổ chức Đảng có thẩm quyền, trường hợp không giải trình được một cách minh bạch, hợp lý thì bị xem xét kỷ luật về Đảng, chính quyền, đoàn thể.
- Tiến tới tất cả đảng viên là cán bộ, công chức đều phải kê khai tài sản, công bố trong chi bộ, cấp uỷ và giải trình nguồn gốc khi có yêu cầu.
Yêu cầu:
- Các bộ, ngành khẩn trương ban hành các quy tắc ứng xử theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng;
- Các cơ quan chức năng của Đảng rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định những điều đảng viên không được làm.
3.4. Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị là một biện pháp rất cơ bản để phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã quy định tương đối đầy đủ, cụ thể về việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và trong một số lĩnh vực.
Nghị quyết cũng yêu cầu phải sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai và sớm ban hành Luật Tiếp cận thông tin.
3.5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội.
Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế- xã hội được coi là một trong những chủ trương, giải pháp chủ yếu để phòng, chống tham nhũng, lãng phí . Trên cơ sở tiếp tục khẳng định những cơ chế, chính sách đúng đắn đã có về quản lý kinh tế, xã hội và cải cách hành chính, Nghị quyết đề ra một số quy định cụ thể nhằm quản lý chặt chẽ 4 lĩnh vực kinh tế, xã hội được coi là có nguy cơ tham nhũng cao, gồm: quản lý và sử dụng đất đai, công sở; quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và hoạt động mua sắm công; công tác thu, chi ngân sách; cổ phần hoá và quản lý doanh nghiệp nhà nước.
a- Về quản lý và sử dụng đất đai, công sở:
Đây là lĩnh vực có nhiều tham nhũng, lãng phí nhất ở nước ta hiện nay. Trung ương yêu cầu phải thực hiện nghiêm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai, công sở với những nội dung như sau:
- Chấn chỉnh, bảo đảm công khai, minh bạch trong quy hoạch và quản lý, sử dụng đất đai, công sở. Nghiêm cấm tùy tiện sửa đổi quy hoạch.
- Rà soát, đánh giá hiệu quả sử dụng đất, công sở; khắc phục ngay tình trạng quy hoạch, giải phóng mặt bằng, xây dựng dự án chậm trễ, kéo dài. Đất và công sở được sử dụng không đúng mục đích, kém hiệu quả phải bị thu hồi để chuyển đổi mục đích sử dụng hoặc bán đấu giá.
- Đối với quỹ đất dành cho các dự án kinh doanh hạ tầng đô thị, trung tâm thương mại, nhà ở, các cơ sở dịch vụ có vị trí kinh doanh thuận lợi, nhất thiết phải thực hiện cơ chế đấu thầu công khai quyền sử dụng đất nhằm tăng thu cho ngân sách và chống tham nhũng.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tài chính về đất đai, đăng ký bất động sản.
b- Về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và hoạt động mua sắm công.
Các biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và hoạt động mua sắm công như sau:
- Các cấp uỷ đảng lãnh đạo thực hiện nghiêm túc Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng.
- Thực hiện công khai, minh bạch trong quyết định, chủ trương đầu tư. Nghiêm túc thực hiện quy định về đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước.
- Ngăn chặn tình trạng người quyết định đầu tư, chủ đầu tư, đơn vị tư vấn và nhà thầu cùng một cơ quan, đơn vị để chống tình trạng khép kín trong đầu tư xây dựng.
- Bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất làm nhiệm vụ quản lý dự án.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong đầu tư, xây dựng từ ngân sách nhà nước.
Đặc biệt là, cùng với yêu cầu công khai, minh bạch trong hoạt động mua sắm công, kể cả công khai các khoản hoa hồng từ mua sắm, Trung ương quyết định sẽ thực hiện thí điểm mô hình mua sắm công tập trung, trước mắt là mua sắm các loại hàng có nhu cầu sử dụng nhiều và có giá trị lớn. Qua một thời gian thực hiện thí điểm, nếu thấy có tác dụng tốt thì sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của các trung tâm này. Các hoạt động mua sắm hàng hoá và dịch vụ bằng ngân sách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị sẽ chủ yếu do các trung tâm mua sắm công đảm nhiệm. Đây là một dịch vụ của các cơ quan, đơn vị có sử dụng ngân sách. Thực hiện tốt mô hình này vừa tiết kiệm được ngân sách lại vừa có tác dụng phòng ngừa tham nhũng hiệu quả.
c- Về công tác thu, chi ngân sách
Để phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong thu, chi ngân sách, Nghị quyết đề ra các quy định sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách, trang bị tài sản, phương tiện đi lại, thiết bị làm việc.
- Khẩn trương ban hành Luật về quản lý thuế nhằm áp dụng rộng rãi cơ chế cá nhân, tổ chức phải tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế bằng chuyển khoản qua ngân hàng, kho bạc.
- Thực hiện cơ chế thanh toán qua ngân hàng, kho bạc đối với việc mua sắm công, các khoản thu của hải quan, thu thuế doanh nghiệp; các khoản thu, chi ngân sách được thực hiện qua hệ thống thanh toán điện tử của kho bạc nhà nước.
d- Về quản lý doanh nghiệp nhà nước
Trung ương tiếp tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3; Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX) và Nghị quyết Đại hội X của Đảng; đồng thời tăng cường quản lý vốn, tài sản nhà nước và nhân sự tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Tại Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) ghi rõ:
- Kiểm soát chặt chẽ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; ngăn chặn kịp thời tiêu cực, sai trái trong định giá, đấu giá tài sản của doanh nghiệp, xác định tỷ lệ giá trị tài sản của Nhà nước trong giá trị tài sản doanh nghiệp cổ phần; công khai hoá việc mua- bán cổ phần của doanh nghiệp được chuyển đổi.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát tài chính, phát huy quyền giám sát của người lao động trong các doanh nghiệp.
Đáng chú ý là, Nghị quyết đề ra một số quy định mới nhằm phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong hoạt động của các doanh nghiệp có vốn nhà nước như: tăng cường chế độ công khai, minh bạch, nghĩa vụ giải trình của các doanh nghiệp; thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước; xử lý nghiêm những người được giao quản lý các doanh nghiệp có vốn nhà nước khi thực hiện các giao dịch kinh doanh với doanh nghiệp thuộc sở hữu của người thân (quy định này nhằm khắc phục tình trạng cán bộ quản lý nhà nước hoặc quản lý doanh nghiệp nhà nước thông đồng với các doanh nghiệp “sân sau” của mình để tham nhũng).
3.6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng.
Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử; coi đây là lực lượng nòng cốt trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí thì nhất thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan này. Nghị quyết đề ra một số quy định cụ thể như sau:
- Tập trung kiểm tra, thanh tra, kiểm toán một số lĩnh vực trọng điểm, như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thu - chi ngân sách, quản lý tài sản công và hệ thống ngân hàng thương mại.
- Thành lập các đoàn công tác liên ngành giữa Uỷ ban kiểm tra của Đảng với thanh tra, kiểm toán, công an, kiểm sát để phối hợp xử lý các vụ tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng. Công khai kết quả xử lý của các đoàn công tác này.
- Chỉ đạo kiện toàn cơ quan thanh tra, điều tra thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí nói chung, trong lực lượng vũ trang nói riêng.
- Nghiên cứu tổ chức các cơ quan phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo hướng bảo đảm sự độc lập cần thiết với các cơ quan quản lý nhà nước theo cấp lãnh thổ và sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Trung ương. Tăng cường cán bộ cho các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, toà án và kiểm tra của Đảng, đồng thời kiểm soát hoạt động của các cơ quan này.
- Thanh tra Chính phủ và các cơ quan thanh tra cấp tỉnh, huyện tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra công vụ.
- Nghiên cứu kết hợp tổ chức và hoạt động kiểm tra của Đảng với các cơ quan thanh tra.
- Người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh về trách nhiệm chính trị, hành chính hoặc hình sự, bất kể người đó là ai và ở cương vị nào.
- Những đảng viên có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, dù cơ quan chức năng chưa kết luận được, cấp uỷ vẫn xem xét, cân nhắc bố trí công việc khác phù hợp.
- Áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng.
- Nghiên cứu sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng khoan hồng hơn đối với những người đưa hoặc người nhận hối lộ nhưng đã tự giác khai báo và nộp lại tài sản trước khi bị phát hiện.
- Nhanh chóng bổ sung vào Bộ luật Hình sự các hành vi tham nhũng, mới được quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng; chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng.
- Khi phát hiện đảng viên thuộc diện cấp uỷ quản lý có dấu hiệu tham nhũng thì các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp xử lý theo thẩm quyền, chịu trách nhiệm trước pháp luật và tổ chức đảng về quyết định của mình, đồng thời phải kịp thời báo cho cấp uỷ đảng quản lý cán bộ đó biết.
Như vậy, trong giải pháp này có những vấn đề mới, đáng chú ý như:
-Thanh tra Chính phủ và các cơ quan thanh tra cấp tỉnh, huyện tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra công vụ;
- Nghiên cứu kết hợp tổ chức và hoạt động kiểm tra Đảng với các cơ quan thanh tra Nhà nước.
- Xem xét, cân nhắc bố trí công việc khác cho những đảng viên có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, dù cơ quan chức năng chưa kết luận được;
- Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng khoan hồng hơn đối với những người đưa hoặc người nhận hối lộ nhưng đã tự giác khai báo và nộp lại tài sản trước khi bị phát hiện;
- Khi phát hiện đảng viên thuộc diện cấp uỷ quản lý có dấu hiệu tham nhũng thì các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp xử lý theo thẩm quyền (không phải xin ý kiến cấp ủy mà thông báo cho cấp ủy biết).
Đặc biệt trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm chú trọng đến việc xây dựng, cải cách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đối với bộ máy công quyền và các cơ quan tố tụng. Cụ thể như nước ta đang thực hiện việc cải cách tư pháp, một trong những nhiệm vụ then chốt nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, từng bước khắc phục tình trạng án oan, án sai trong quá trình thực hiện điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo tính minh bạch dân chủ trong thực thi pháp luật. Một ví dụ vụ án oan sai đối với ông Nguyễn Văn Chấn, huyện Bắc Giang, như báo chí đã đưa tin, chung ta thấy sau nhiều thời gian, các cấp các ngành tập trung xem xét, đến nay ông Chấn đã được nhận số tiền bồi thường cho 10 năm ngồi tù oan với số tiền 7,2 tỷ. Đây cũng khẳng định sự cố gắng, nỗ lực của cả hệ thống các cơ quan Nhà nước để bảo vệ cái đúng và việc làm sai, người cố tình làm sai phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
3.7. Thực hiện tốt công tác truyền thông về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Trung ương tiếp tục đề cao vai trò, trách nhiệm cuả báo chí trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhưng cũng yêu cầu báo chí khắc phục tình trạng thông tin một chiều, mang tính kích động, gây hoang mang hoặc quy kết tội danh, mức án trước khi xét xử. Nghị quyết quy định:
- Bảo vệ, khen thưởng, động viên những người làm báo tích cực, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm việc đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt gây hậu quả xấu.
- Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và các cơ quan chức năng phải chủ động cung cấp kịp thời, đúng pháp luật cho công chúng những thông tin có liên quan đến tham nhũng, lãng phí (xây dựng cơ chế phát ngôn chính thức về tình hình và công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí).
3.8. Xây dựng các cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng chống tham nhũng
Đối với việc thành lập các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng trong Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Trung ương yêu cầu kiện toàn các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng do Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng Viện KSNDTC trực tiếp chỉ đạo; tăng cường cán bộ có bản lĩnh, năng lực, tạo điều kiện thuận lợi, đồng thời kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các đơn vị này.
Về việc tổ chức bộ phận chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng ở các cấp, các ngành, Nghị quyết giao cho Chính phủ xem xét, quy định.
3.9. Tăng cường giám sát của nhân dân và cơ quan dân cử
Để giám sát công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, NQ đề ra một số biện pháp cụ thể như sau:
- Hàng năm, Quốc hội và HĐND các cấp nghe báo cáo và thảo luận, chất vấn về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Tăng cường công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng; chú trọng kiểm tra, thanh tra, giám sát việc sử dụng các quỹ từ thiện, nhân đạo.
- Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở gắn với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả thanh tra nhân dân, khắc phục bệnh hình thức.
3.10. Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng
Nghị quyết tiếp tục khẳng định chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng với các nội dung sau:
- Chủ động tham gia các chương trình, sáng kiến, diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Thực hiện các cam kết quốc tế về phòng, chống tham nhũng, chú trọng tới các cam kết về xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch.
III. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
- Luật Phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11, ngày 29-11-2005 và Luật số 01/2007/QH12, ngày 17-8-2007 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng; Luật số 27/2012/QH13, ngỳ 23-11-2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng (sau đây viết tắt là PCTN).
Luật PCTN gồm 8 chương, 92 điều:
Chương I. Những quy định chung, gồm 10 Điều (từ Điều 1 đến Điều 10)
Chương II. Phòng ngừa tham nhũng, gồm 48 Điều (từ Điều 11 đến Điều 58) được chia thành 6 mục.
Chương III. Phát hiện tham nhũng, gồm 9 điều (từ Điều 59 đến Điều 67) được chia thành 3 mục.
Chương IV. Xử lý hành vi tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác, gồm 4 điều (từ Điều 68 đến Điều 71) được chia thành 2 mục.
Chương V. Tổ chức, trách nhiệm và hoạt động phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong PCTN, gồm 13 điều (từ Điều 72 đến Điều 84).
Chương VI. Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong PCTN, gồm 4 điều (từ Điều 85 đến Điều 88).
Chương VII. Hợp tác quốc tế về PCTN, gồm 2 điều (Điều 89 và Điều 90).
Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 91 và Điều 92).
1. Các hành vi tham nhũng
Trên cơ sở khái niệm hành vi tham nhũng và khái niệm người có chức vụ, quyền hạn nêu trên, Điều 3 của Luật phòng, chống tham nhũng quy định cụ thể 12 loại hành vi tham nhũng, bao gồm:
- Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; Cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Trong 12 loại hành vi tham nhũng nêu trên, thì có 7 loại hành vi đầu đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (từ Điều 278 đến Điều 284), 5 loại hành vi sau là những hành vi đã phát sinh trong xã hội và đang trở nên phổ biến, cần được quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý.
2. Phòng ngừa tham nhũng
Phòng ngừa tham nhũng được coi là yếu tố quan trọng, mang tính chiến lược, quyết định hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định một hệ thống các biện pháp nhằm phòng ngừa tham nhũng và có thể coi đây là nội dung quan trọng nhất của Luật.
2.1. Công khai, minh bạch hoá hoạt động của bộ máy nhà nước
Là một giải pháp quan trọng trong hệ thống các giải pháp phòng ngừa tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng đã dành nhiều quy định cho công khai, minh bạch, vấn đề công khai, minh bạch đã được đề cập một cách toàn diện, chi tiết và có tính khả thi. Nói cách khác, công khai, minh bạch đã được “cơ chế hoá” trong đạo luật này.
Theo đó, về nguyên tắc, toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước phải được công khai, trừ trường hợp pháp luật quy định phải bí mật. Đồng thời, để ràng buộc và nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Luật quy định các hình thức công khai, minh bạch hóa hoạt động của cơ quan, tổ chức mình. Luật phòng, chống tham nhũng cũng lựa chọn những nội dung quan trọng, dễ phát sinh tham nhũng, buộc phải công khai như: mua sắm công, quản lý dự án đầu tư xây dựng, tài chính và ngân sách nhà nước, huy động và sử dụng các khoản viện trợ, quản lý và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý và sử dụng đất, nhà ở, y tế, giáo dục, khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường, thể dục thể thao, thanh tra, kiểm toán nhà nước, hoạt động giải quyết công việc của công dân, doanh nghiệp, tư pháp, công tác cán bộ; trách nhiệm giải trình…
Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong đó có các cơ quan báo chí được phép yêu cầu các cơ quan nhà nước phải trả lời công khai về các hoạt động của mình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan được yêu cầu chỉ được phép từ chối cung cấp thông tin nếu nội dung được yêu cầu thuộc về bí mật nhà nước.
2.2. Xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, định mức, tiêu chuẩn
Luật phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc xây dựng, hoàn thiện và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong quản lý nhà nước và trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Đồng thời, trách nhiệm pháp lý cụ thể của đối tượng vi phạm cũng đã được xác định rõ, góp phần răn đe cũng như tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc xử lý vi phạm, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của người cho phép sử dụng thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn.
2.3. Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức
Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức không chỉ có nhiệm vụ là phòng, chống tham nhũng mà nó còn có vai trò rất lớn trong việc xây dựng một nền quản lý nói chung và quản lý hành chính nói riêng trong sạch, liêm chính và trách nhiệm. Luật phòng, chống tham nhũng một mặt tiếp tục bổ sung để hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh về quyền, nghĩa vụ và những điều cấm đối với cán bộ, công chức, mặt khác, quy định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc ban hành bộ quy tắc ứng xử riêng phù hợp với đặc thù của ngành, cơ quan mình. Theo đó, Điều 37 quy định về những điều cán bộ, công chức, viên chức không được làm trên cơ sở phát triển quy định hiện hành tương ứng của Pháp lệnh cán bộ, công chức và Pháp lệnh chống tham nhũng. Điều 38 và Điều 39 quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng.
2.4. Việc tặng quà và nhận quà tặng
Tặng quà và nhận quà tặng là vấn đề mang tính chất xã hội, là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, từ trước đến nay được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức - xã hội là chủ yếu. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp đã bị lợi dụng để thực hiện hành vi tiêu cực. Vì vậy, vấn đề này cần phải được điều chỉnh trong Luật phòng, chống tham nhũng. Điều 40 quy định một số nguyên tắc chung về quà tặng và nhận quà tặng nhằm ngăn ngừa việc lợi dụng quà tặng, nhận quà tặng để đưa, nhận hối lộ. Chính phủ sẽ có quy định chi tiết về việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức.
2.5. Chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức
Việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức được coi là một giải pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa hiện tượng cấu kết, móc nối hình thành “đường dây” tiêu cực, tham nhũng. Điều 43 quy định một số nguyên tắc chung về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức. Để đảm bảo sự ổn định của quản lý và tính chất chuyên sâu của công việc, việc chuyển đổi chỉ là chuyển đổi vị trí, mang tính chất địa lý, cơ học chứ không phải chuyển đổi về nội dung, tính chất công việc, đồng thời việc chuyển đổi chỉ thực hiện đối với một số vị trí quản lý tiền, tài sản của nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc, giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2.6. Minh bạch tài sản của cán bộ, công chức
Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định một cách khá toàn diện và đầy đủ những nội dung cơ bản nhất của hệ thống minh bạch tài sản, bao gồm những vấn đề chính sau:
- Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản hàng năm. Để tránh che giấu, tẩu tán tài sản tham nhũng, ngoài việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, công chức còn phải kê khai tài sản của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên. Đối tượng tài sản phải kê khai được mở rộng hơn so với Pháp lệnh chống tham nhũng.
- Việc xác minh tài sản được tiến hành trong một số trường hợp nhất định. Đây là điểm mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng. Khi xem xét đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử hoặc có hành vi tham nhũng thì thủ trưởng cơ quan tổ chức việc xác minh tài sản để xem cán bộ, công chức có kê khai trung thực hay không.
- Công khai bản kê khai tài sản.
- Người kê khai có nghĩa vụ giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm.
- Xác minh tài sản.
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật nếu kê khai không trung thực, nếu là người ứng cử thì sẽ bị loại khỏi danh sách bầu cử, người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn sẽ không được bổ nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ dự kiến.
2.7. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng quy định rõ: trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức; trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý.
3. Phát hiện tham nhũng
3.1. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát
Luật phòng, chống tham nhũng quy định các hình thức hoạt động cụ thể để phát hiện hành vi tham nhũng. Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thường xuyên hoặc đột xuất kiểm tra hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức nhằm chủ động phát hiện và kịp thời xử lý hành vi tham nhũng; cơ quan quản lý có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra hoạt động chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Quốc hội, HĐND có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng thông qua công tác thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, kiểm sát, xét xử và giám sát.
3.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng
Tố cáo là một nguồn tin quan trọng trong phát hiện hành vi tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định những nguyên tắc chung và nội dung cơ bản của tố cáo hành vi tham nhũng. Luật quy định cơ chế bảo vệ người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị trong việc tiếp nhận và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng; khen thưởng người tố cáo hành vi tham nhũng.
4. Xử lý hành vi tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác
4.1. Xử lý kỷ luật, xử lý hình sự
Luật quy định hai hình thức chế tài áp dụng đối với người có hành vi tham nhũng là xử lý kỷ luật hoặc xử lý hình sự. Theo đó, đối tượng bị áp dụng chế tài gồm: người có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 3 của Luật; người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng; người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng; người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; người thực hiện hành vi khác vi phạm quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
4.2. Xử lý tài sản tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng quy định về nguyên tắc tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu, trả lại cho chủ sở hữu, quản lý hợp pháp hoặc sung công quỹ nhà nước. Người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi hành vi đưa hối lộ bị phát hiện thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Theo Điều 71 về thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài thì trên cơ sở điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp.
Tin bài: Nguyễn Thuy
Lượt truy cập: 48187904
Đang online: 1249
Ngày hôm qua: 1474
Phụ trách kỹ thuật: 0987. 008. 333