Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của Trường Đại học Nông Lâm đã có những phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng, tạo ra nhiều sản phẩm KHCN góp phần phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương. Trong 5 năm qua, Nhà trường đã thực hiện 21 đề tài cấp Nhà nước, 123 đề tài cấp Bộ, 81 đề tài cấp Đại học, 497 đề tài cấp trường, thực hện 103 đề tài, dự án chuyển giao công nghệ với các địa phương. Tổng kinh phí cho hoạt động khoa học công nghệ trong 5 năm là 143,88 tỷ đồng. Đặc biệt, trong giai đoạn 2010 – 2015, Nhà trường đã xây dựng và thực hiện 05 đề tài Nghị định thư với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan, đã đăng tải 59 bài báo trên các tạp chí khoa học quốc tế và 458 bài báo trên các tạp chí khoa hoc trong nước. Bước đầu đã tạo ra và phát triển các sản phẩm khoa học mang thương hiệu Nhà trường như Phân hữu cơ sinh học NTT, giống lúa Nông Lâm 7, giống sắn KM419, HL2004-28, Kít chẩn đoán ELISA, vắc xin phòng bệnh phân trắng lợn con, các quy trình kỹ thuật trồng hoa ly, cà chua ghép, nguồn gen cây, con đặc sản, giống cây lâm nghiệp, cây dược liệu… Đã tổ chức được trên 40 hội nghị, hội thảo, sermina trong nước và quốc tế…
PGS.TS. Trần Văn Điền - Hiệu trưởng Nhà trường chủ trì hội nghị
Tại hội nghị, các đại biểu cũng đã thảo luận, phân tích những thẳng thắn chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu còn tồn tại, đồng thời đưa ra kế hoạch chiến lược phát triển khoa học công nghệ giai đọan 2015 – 2020 với các mục tiêu và giải pháp cụ thể. Nhà trường sẽ xây dựng và triển khai 5 – 7 đề tài cấp Nhà nước, 10 – 15 đề tài cấp Bộ, 50 – 100 đề tài cấp trường; Tạo ra được ít nhất 3 – 5 sản phẩm khoa học công nghệ có tnhs thương mại như giống mới, các quy trình mới; Mỗi năm ký được ít nhất 10 hợp đồng chuyển giao khoa học công nghệ cho các địa phương và cơ sở sản xuất; Kinh phí đầu tư hang năm cho khoa học công nghệ từ Bộ ngành trung ương là 7 – 10 tỷ, từ các địa phương và các tổ chức là 30 – 40 tỷ, từ các nguồn thu của Nhà trường ít nhất là 2 tỷ/năm; Phấn đấu thu hút được 3 – 5 đề tài, dự án hợp tác quốc tế trong 5 năm với mức kinh phí 200.000 – 300.000 USD; Trong 5 năm công bố được 50 – 100 bài báo quốc tế và 600 – 800 bài báo trong nước… Để thực hiện được những mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể, hội nghị cũng đưa ra một số giải pháp về tổ chức, chính sách và tài chính. Một số hướng nghiên cứu tập trung vào các nhóm chủ chốt của Nhà trường hiện nay là ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, khuyến nông và phát triển nông thôn, kinh tế, tài nguyên môi trường, công nghệ sinh học và công nghệ thực phẩm.
Th.S. Nguyễn Hữu Thọ báo cáo hoạt động NCKH giai đoạn 2010 - 2014
Cùng với những giải pháp đồng bộ, Nhà trường cũng ban hành một số quyết định để khuyến khích các giảng viên, các nhà khoa học dành nhiều thời gian nghiên cứu khoa học như ban hành quy định tính giờ chuẩn hoạt động khoa học và công nghệ đối với giảng viên và quy định về công tác quản lý khoa học công nghệ với những kế hoạch cụ thể.
GS.TS. Trần Ngọc Ngoạn trình bày tham luận "Giải pháp tạo ra sản phẩm KHCN"
Các đại biểu cũng được nghe tham luận “Giải pháp tạo ra sản phẩm khoa học công nghệ” do GS.TS. Trần Ngọc Ngoạn trình bày; Tham luận “Giải pháp thu hút kinh phí khoa học công nghệ từ địa phương” của PGS.TS. Đào Thanh Vân; Tham luận “Giải pháp thu hút kinh phí từ các Bộ ngành” của PGS.TS. Nguyễn Viết Hưng và tham luận “Giải pháp khuyến khích giảng viên trẻ nghiên cứu khoa học: của TS. Dương Văn Cường. Các tham luận đều chỉ ra những mục tiêu tổng quát và các giải pháp, định hướng nghiên cứu khoa học được rút ra từ thực tiễn, có tính ứng dụng cao trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
PGS.TS. Đào Thanh Vân trình bày tham luận "Giải pháp thu hút kinh phí KHCN từ địa phương"
Để hoạt động khoa học công nghệ thực sự trở thành động lực cho sự phát triển của Nhà trường, kết luận hội nghị, PGS.TS. Trần Văn Điền – Hiệu trưởng đề nghị cần hình thành sớm các nhóm nghiên cứu chuyên ngành để sớm tạo ra sản phẩm khoa học mang thương hiệu của Nhà trường, có khả năng thương mại, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để giải quyết yêu cầu của các địa phương, Căn cứ vào những giải pháp cụ thể, Nhà trường sẽ tạo mọi điều kiện hỗ trợ, những chính sách ưu tiên trên cơ sở đề xuất của các nhóm chuyên ngành, đồng thời huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nâng cao vai trò, vị thế của khoa học công nghệ trong tiến trình phát triển chung của Nhà trường.
Với những tiềm năng sẵn có và cơ chế chính sách hợp lý của Nhà trường cùng với sự nỗ lực của đội ngũ các nhà khoa học, trong thời gian tới, Trường Đại học Nông Lâm sẽ tiếp tục giữ vững các thành tích khoa học công nghệ đã đạt được và phát huy lên một tầm cao mới, khẳng định được sứ mệnh của một Nhà trường đào tạo cán bộ chủ chốt ngành nông nghiệp cho cả nước nói chung và khu vực miền núi phía Bắc nói riêng.
Thu Hà