Bản quyền là một hình thức bảo hộ của luật pháp Hoa Kỳ (điều 17, bộ luật Hoa Kỳ)
đối với tác giả của “các tác phẩm gốc của tác giả”, bao gồm tác phẩm văn học, sân
khấu, âm nhạc, nghệ thuật và các tác phẩm trí tuệ khác. Hình thức bảo hộ được áp
dụng với các tác phẩm đã được xuất bản cũng như chưa được xuất bản. Mục 106, Đạo
luật Bản quyền năm 1976 quy định chủ sở hữu bản quyền có toàn quyền thực hiện và
cho phép người khác thực hiện những hành vi sau đây:Click để xem tiếp
Bản quyền là gì?
Bản quyền là một hình thức bảo hộ của luật pháp Hoa Kỳ (điều 17, bộ luật Hoa Kỳ)
đối với tác giả của “các tác phẩm gốc của tác giả”, bao gồm tác phẩm văn học, sân
khấu, âm nhạc, nghệ thuật và các tác phẩm trí tuệ khác. Hình thức bảo hộ được áp
dụng với các tác phẩm đã được xuất bản cũng như chưa được xuất bản. Mục 106, Đạo
luật Bản quyền năm 1976 quy định chủ sở hữu bản quyền có toàn quyền thực hiện và
cho phép người khác thực hiện những hành vi sau đây:
• Tái sản xuất tác phẩm dưới dạng các bản sao hoặc bản lưu giữ âm thanh;
• Sáng tạo tác phẩm phái sinh dựa trên tác phẩm đó;
• Phân phối bản sao hoặc bản lưu giữ âm thanh của tác phẩm tới công chúng
dưới hình thức bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu, hoặc cho thuê mướn;
• Trình diễn công khai tác phẩm, nếu là tác phẩm văn học, âm nhạc, sân khấu, vũ
ba-lê, kịch câm, tác phẩm điện ảnh và các tác phẩm nghe nhìn khác;
• Trưng bày công khai tác phẩm, nếu là tác phẩm văn học, âm nhạc, sân khấu, vũ
ba-lê, kịch câm và tác phẩm nhiếp ảnh, đồ họa hoặc điêu khắc, kể cả những
hình ảnh đơn lẻ của tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm nghe nhìn khác; và
• Đối với bản ghi âm*, có quyền trình diễn tác phẩm công khai bằng phương tiện
truyền âm kỹ thuật số.
Hơn nữa, một số tác giả của tác phẩm nghệ thuật thị giác còn có các quyền về nguồn
gốc và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm được nêu tại mục 106A, Đạo luật Bản quyền
năm 1976. Để có thêm thông tin, yêu cầu xem Thông tư số 40, Việc đăng ký bản
quyền đối với các tác phẩm nghệ thuật thị giác.
Sẽ là phạm pháp nếu vi phạm các quyền quy định trong luật bản quyền đối với chủ sở
hữu bản quyền. Tuy nhiên, các quyền này không phải là không có giới hạn. Các mục
từ 107 đến 121, Đạo luật Bản quyền năm 1976 quy định những hạn chế đối với các
quyền này. Trong một số trường hợp, những hạn chế này là việc miễn trách nhiệm
pháp lý liên quan tới bản quyền. Một hạn chế lớn khác là học thuyết “sử dụng hợp
lý”, được quy định tại mục 107 của Đạo luật Bản quyền năm 1976. Trong các trường
hợp khác, hạn chế đối với các quyền này được thể hiện dưới hình thức một kiểu “giấy
phép bắt buộc”, theo đó để được sử dụng hạn chế tác phẩm có bản quyền người ta
phải trả tiền bản quyền và tuân thủ các điều kiện pháp luật quy định. Để có thêm
thông tin về những hạn chế đối với bất kỳ quyền nào trong số những quyền này, nên
tham khảo luật bản quyền hoặc gửi thư cho Cục Bản quyền.
Link tải về free để xem tiếp
http://www.mediafire.com/view/86jsj75zuxw3rl7/Ban_quyen_la_gi.pdf