Những chiến lược để đạt được mục đích này bao gồm: (1) Đầu tư vào những giống cây có chất lượng dinh dưỡng và hương vị tốt, đồng thời có thời gian lưu trữ sau thu hoạch lâu dài khi được thu hái ở độ chín tối đa; (2) Sử dụng hệ thống quản lý mùa vụ đồng bộ cái mà sẽ mang lại sản lượng cao nhất và không có sự hao hụt về chất lượng; (3) Sử dụng các kỹ thuật xử lý sau thu hoạch tối ưu để duy trì chất lượng và sự an toàn của các sản phẩm thực phẩm. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng sự tổn thất sau thu hoạch đang vẫn còn ở mức cao ở các nông trại, hay trong cả quá trình bán buôn lẫn bán lẻ, và thực tế cho thấy rằng tình trạng hao hụt này không hề cải thiện từ những năm 1970 cho tới hiện tại mặc dù đã áp dụng rất nhiều chương trình giáo dục và nghiên cứu nông nghiệp ở các nước.
Theo nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hộ nông dân đã mất đi từ 30% đến 40% giá trị về hoa màu trước khi chúng được tiêu thụ. Sự hao hụt này được quan sát thấy từ quá trình thu hoạch, đóng gói, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ và trong các quá trình tàng trữ chờ đợi để sản xuất tiếp theo. ở Rwanda (Ru-an-da), Ghana (Ga-na), Benin (Be-nan) và Ấn Độ, các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra được kết quả tương tự, sự tổn thất này chiếm từ 30% đến 80%. Những tổn thất về mặt vật lý và chất lượng đa phần là do sự quản lý không tốt về nhiệt độ, sử dụng các loại bao bì kém chất lượng, quá trình xử lý sơ bộ chưa đúng và sự thiếu hiểu biết chung của các nhà sản xuất, thương lái về cách thức duy trì chất lượng và sự an toàn đối với các sản phẩm dễ hư hỏng. Sự tổn thất về mặt vật lý và chất lượng này dẫn tới sự giảm giá trị thương mại và mang lại nguồn thu nhập thấp đi rất nhiều cho người nông dân.
Trong khi các nhà nghiên cứu đã tìm ra được rất nhiều kỹ thuật sau thu hoạch hữu ích và có triển vọng cho các nước đang phát triển, thì lại có một sự thiếu hụt về thông tin liên quan đến chi phí và các lợi ích về mặt tài chính của các công nghệ tiên tiến này, vì giá cả hầu như rất ít khi được ghi lại trong các nghiên cứu. Thông thường, bước chuyển đổi các kết quả nghiên cứu từ qui mô phòng thí nghiệm mở rộng ra thực tế đang bị bỏ xót hoặc các chi phí được xem nhẹ khi thử nghiệm đưa các công nghệ này vào áp dụng. Các hoạt động kỹ thuật hữu ích này do đó có xu hướng bị phớt lờ vì không có thông tin nào về chi phí hoặc nguồn thu hồi tài chính có thể có của nó ở các vùng miền đang phát triển khác nhau.
Mặc dù các chương trình giáo dục và các hoạt động đào tạo về lĩnh vực sau thu hoạch ngày càng được mở rộng tới các nước đang phát triển, nhưng thông thường lại thiếu hụt sự hỗ trợ và theo sát sau những quá trình đào tạo đó. Những dự án đào tạo này hoàn toàn phù hợp và sẵn sàng bổ sung cho các hoạt động cải thiện thực tế nhưng lại không thể thực hiện được bởi sự thiết hụt về nguồn cung cấp các dụng cụ và thiết bị ở các địa phương. Bất cứ sự thay đổi nào về hoạt động sau thu hoạch sau đó thường bị bỏ rơi hoặc các hệ thống xử lý bị phá vỡ, các dụng cụ hoặc các bộ phận còn lại của hệ thống không mang lại giá trị đáng có của nó.
Thách thức và cơ hội phát triển của các nghiên cứu lĩnh vực sau thu hoạch và tầm nhìn trong tương lai
Dưới 5% nguồn đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu và mở rộng (R&E) trồng trọt là giành cho các vấn đề về sau thu hoạch trong vòng 20 năm trở lại đây, khi đó chủ yếu tập trung vào vấn đề gia tăng năng suất, gia tăng sản phẩm. Vào những năm 1990, mục tiêu phát triển này chuyển hướng sang maketing và gần đây hơn nữa thì lại có xu hướng trở thành phát triển chuỗi giá trị. Các dữ liệu từ Internet được nghiên cứu trong suốt năm 2009 bởi AiDA, USAID, DEX, Ngân hàng thế giới (World Bank) UNFAO, DEVEX đã chỉ ra rằng ít hơn 1 trong số 2000 dự án nông nghiệp được tiến hành trên quy mô toàn cầu tập trung vào xử lý và marketing các sản phẩm tươi. Từ những năm 1990 cho tới nay, trong khi có hàng nghìn dự án phát triển sau thu hoạch được triển khai ở các nước đang phát triển được tài trợ bởi các văn phòng, tổ chức tự nguyện, thì chỉ một vài dự án là tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp (dưới 6% theo thống kê của AiDA, 25% theo thống kê của ngân hàng thế giới), và rất ít tập trung vào lĩnh vực trồng trọt ( xấp xỉ 1%) hơn nữa chỉ 1/3 trong số chúng là có liên quan tới lĩnh vực sau thu hoạch. Số liệu nghiên cứu sâu hơn cho thấy lựa chọn cho lĩnh vực sau thu hoạch lại có xu hướng chuyển sang chế biến một vài loại sản phẩm thực phẩm nào đó. Hầu hết các dự án về trồng trọt khác lại nhằm mục đích làm tăng sản phẩm thực phẩm thông qua các phương thức khác nhau nhu: Cải thiện thế thống tưới tiêu, các dự án về cơ sở hạ tầng, phát triển marketing cho các sản phẩm đã chế biến và xuất khẩu hoặc tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Có thể nhận thấy rằng việc đầu tư cho nghiên cứu và mở rộng công nghệ sau thu hoạch lĩnh vực trồng trọt đang quá chậm chạp và cần có một tác động lớn để giảm thiểu sự lãng phí và tăng cường nguồn cung cấp thực phẩm, dẫn đến cải thiện thu nhập mà không cần tiêu xài quá nhiều chi phí cho đầu vào như đất, nước, giống, phân bón, thuốc trừ sâu, nhân công…Những thay đổi về công nghệ hữu ích nhất trong sản xuất, thu hoạch và hệ thống xử lý sau thu hoạch đối với các sản phẩm trồng trọt dễ thối hỏng phải được nghiên cứu chuyên sâu, học thuật sau đó ứng dụng ra thực tế. Việc duy trì chất lượng, đặc biệt là hương thơm đặc trưng, giá trị dinh dưỡng và đảm bảo tính an toàn (tránh sự tạp nhiễm về mặt hoá học và vi sinh) phải được đầu tư nghiên cứu thích đáng ở các nước.
Sau đây là 4 để xuất thông dụng mà đa phần các nhóm nghiên cứu đưa ra để đáp ứng các thách thức trong tương lai của lĩnh vực nghiên cứu và mở rộng công nghệ sau thu hoạch:
Thông tin chi tiết và đầy đủ tham khảo thêm tại: (wileyonlinelibrary.com - Postharvest technology for developing countries)
Đinh Thị Kim Hoa
Đang online | 1605 |
Hôm nay | 586 |
Hôm qua | 3284 |
Tuần này | 586 |
Tuần trước | 23137 |
Tháng này | 3774651 |
Tháng trước | 4969151 |
Tất cả | 48188827 |
Lượt truy cập: 48188830
Đang online: 1607
Ngày hôm qua: 3284
Phụ trách kỹ thuật: 0987. 008. 333