1. Toàn ngành duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, xu hướng tăng dần vào cuối năm
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 2,67%, tương đương mức tăng của năm 2012 (2,68%), trong đó: trồng trọt tăng 2,6%, chăn nuôi tăng 1,4%, lâm nghiệp tăng 5,18%, thủy sản tăng 3,05%. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (theo giá so sánh 2010) ước đạt 801,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,95% so với 2012, trong đó: Nông nghiệp đạt 602,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,47%; lâm nghiệp đạt 22,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,04%; thuỷ sản đạt 176,5 nghìn tỷ đồng, tăng 4,22%. Mặc dù, tốc độ tăng trưởng GDP và giá trị SX toàn ngành thấp hơn mức tăng của năm 2012 (3,4%), nhưng được đánh giá là mức tăng trưởng khá trong bối cảnh có nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước.
2. Sản xuất tiếp tục phát triển, nhiều loại sản phẩm có sản lượng tăng mạnh so với năm 2012
- Trồng trọt
Sản lượng lúa đạt 44,1 triệu tấn, tăng 338 nghìn tấn (0,8%) so với năm trước. Sản lượng ngô đạt 5,2 triệu tấn, tăng 6,6%. Sản lượng rau và hoa màu khác đều tăng.
Đối với cây công nghiệp lâu năm, sản lượng cà phê đạt 1.322,1 nghìn tấn, tăng 2,3%; cao su đạt 934,5 nghìn tấn, tăng 8,2%; hồ tiêu đạt 123,4 nghìn tấn, tăng 5,3%; chè đạt 935 nghìn tấn, tăng 1,3%. Riêng diện tích điều vẫn có xu hướng giảm, ước đạt 310 nghìn ha, giảm 16 nghìn ha, sản lượng đạt 285 nghìn tấn, giảm 4,3%.
Sản lượng cây ăn quả đạt 930 ngàn tấn, tăng 3,1%.
- Chăn nuôi
Sáu tháng đầu năm chăn nuôi gặp nhiều khó khăn. Chính phủ đã có chính sách kịp thời hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ và chỉ đạo quyết liệt ngăn chặn tình trạng nhập lậu. Từ tháng 7 sản xuất chăn nuôi đã dần hồi phục. Ước cả năm 2013, tổngsản lượng thịt hơi các loại đạt 4,33 triệu tấn tăng 1,5%. Trứng và sữa tươi tăng lần lượt là 10,3% và 10,5%. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp quy đổi đạt 13,6 triệu tấn, tăng 7,1% so với năm 2012.
- Lâm nghiệp
Công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 1.964 ha, giảm 39,1%.
Công tác trồng rừng được chỉ đạo tích cực và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nên diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 205,1 ngàn ha, tăng 9,7%. số cây lâm nghiệp trồng phân tán là 50 triệu cây, tương đương năm 2012.
Tỷ lệ che phủ từ cây rừng và cây có tán như cây rừng ước đạt 41,1% (trong đó, diện tích che phủ bằng cây rừng đạt40,2%; cây công nghiệp, cây đặc sản trồng trên đất lâm nghiệp, có tán che như cây rừng đạt 0,9%).
- Thủy sản
Sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 2.709 ngàn tấn, tăng 3,3% so với 2012, trong đó khai thác biển đạt 2.519 ngàn tấn, tăng 3,5%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 3.210 ngàn, tăng 3,2% so với năm trước, trong đó cá 2.407 ngàn tấn, tăng 0,2%; tôm 544,9 ngàn tấn, tăng 15%.
Tổng sản lượng thuỷ sản cả năm ước đạt 5.918,6 ngàn tấn, tăng 3,2% so với năm 2012, trong đó cá đạt 4.400 ngàn tấn, tăng 1,3%; tôm đạt 704 ngàn tấn, tăng 11,7%. Riêng sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 280 nghìn tấn, tăng 50,5%.
- Nghề muối
Diện tích sản xuất muối cả nước ước đạt 14.189 ha (tăng 32 ha so với năm 2012); trong đó, diện tích muối sản xuất công nghiệp đạt 3.394 ha. Sản lượng muối đạt khoảng 1.020.000 tấn tăng 26,4% so với năm 2012.
- Phát triển công nghiệp chế biến và cơ giới hóa
Các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản tiếp tục được ban hành và triển khai thực hiện.
Số lượng máy kéo sử dụng trong sản xuất đã tăng 1,3 lần so với 2006; máy gặt các loại tăng 4,3 lần. Mức độ cơ giới hóa các khâu trồng lúa tăng lên, làm đất đạt 80%; thu hoạch lúa đạt 30% (vùng ĐBSCL đạt 58%); sấy lúa chủ động ởĐBSCL đạt 42%.
3. Công tác xuất khẩu, tiêu thụ nông sản được đẩy mạnh đảm bảo lợi ích cho nông dân
Năm 2013 là năm không thuận lợi cho tiêu thụ nông sản cả xuất khẩu và trong nước. Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ kịp thời. Qua 2 đợt tạm trữ đã giúp cho giá lúa tăng lên đáng kể. Cụ thể: đối với Vụ Đông Xuân khi triển khai tạm trữ giá lúa đã cao hơn so với trước từ 100 - 200 đồng/kg; Vụ Hè thu giá lúa tăng 700 - 800 đồng/kg; gạo tăng 800 - 1000 đồng/kg so với trước thời điểm thu mua tạm trữ.
Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành cả năm ước đạt 27,5 tỷ USD, tăng 0,7% so với năm 2012, thặng dư thương mại đạt hơn 8,5 tỷ USD, trong đó: Thủy sản đạt 6,7 tỷ USD (+10,6%), đồ gỗ và sản phẩm từ gỗ 5,5 tỷ USD (+17,8%), riêng rau quả tăng 25,7%, hạt điều tăng 12,9%, hạt tiêu tăng 13,4%; tôm tăng 25%. Các mặt hàng giảm kim ngạch xuất khẩu gồm: Gạo đạt 3,0 tỷ USD, giảm 18,7%, cà phê đạt 2,7 tỷ USD, giảm 26,6%, cao su đạt 2,5 tỷ USD, giảm 11,7%.
4. Công tác thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt bão đạt được nhiều tiến bộ
Trong năm, có gần 30 công trình thủy lợi do Bộ quản lý cùng hàng trăm công trình nhỏ do các địa phương chủ động đầu tư được hoàn thành làm tăng năng lực tưới tiêu của hệ thống thủy lợi.
Công tác quản lý, khai thác các công trình thủy lợi được quan tâm hơn. Đã thường xuyên theo dõi sát diễn biến thời tiết, nguồn nước và chỉ đạo vận hành các hệ thống thuỷ lợi đảm bảo nước cho gieo trồng vụ Đông Xuân ở vùng Trung du, đồng bằng Bắc Bộ, điều hành phân ranh mặn ngọt, đảm bảo đủ nước ngọt phục vụ sản xuất vụ Xuân Hè, Hè Thu ở các tỉnh vùng ĐBSCL; tích cực chống hạn ở miền Trung và Tây Nguyên.
Đã hoàn thiện mặt cắt theo tiêu chuẩn thiết kế được 650 km đê sông; gia cố mặt đê được 560 km; sửa chữa, xây mới được 19 cống dưới đê; nâng cấp, đắp mới 466 km đê biển.
Công tác phòng chống lụt bão tiếp tục được quan tâm thực hiện sâu sát, quyết liệt, hạn chế được nhiều thiệt hại về người và tài sản. Tuy vậy, cả năm vẫn có 285 người chết và mất tích, thiệt hại kinh tế khoảng 28 nghìn tỷ đồng.
5. Công tác đầu tư cơ bản từng bước khắc phục sự dàn trải và nợ đọng, nhiều công trình được hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm
Năm 2013, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý 11.532,96 tỷ đồng (KH 2013 là 10.190,06 tỷ đồng, ứng trước KH 2014 là 1.342,9 tỷ đồng), bao gồm: 6.346 tỷ đồng vốn TPCP và 5.186,96 tỷ đồng vốn ngân sách tập trung (cả vốn trong nước và vốn ODA).
Khối lượng thực hiện đạt 12.246 tỷ đồng, trong đó, vốn trong nước ước đạt 2.477 tỷ đồng (100% KH), vốn ngoài nước đạt 4.069 tỷ đồng (202% KH). Vốn trái phiếu Chính phủ ước đạt 5.700 tỷ đồng (100% KH).
6. Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới và các chương trình xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội ở nông thôn tiếp tục được quan tâm thực hiện, bộ mặt nông thôn ở nhiều nơi ngày càng đổi mới
- Chương trình xây dựng nông thôn mới
Công tác qui hoạch và lập Đề án xây dựng NTM tiếp tục được thực hiện. Đến cuối năm 2013, tỷ lệ các xã hoàn thành quy hoạch nông thôn mới đạt 93%; có 7.995/9084 xã (chiếm 79,2%) phê duyệt xong đề án xây dựng nông thôn mới.
Trong năm, đã huy động nguồn vốn xã hội cho Chương trình được 41.365 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ là 1.680 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 12.594 tỷ đồng, vốn tín dụng là 15.152 tỷ đồng, vốn của doanh nghiệp và cộng đồng là 11.939 tỷ đồng. Nhiều địa phương đã có cách làm hay, chính sách tốt trong việc lồng ghép và huy động nguồn lực (Tuyên Quang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Tĩnh,… ).
Theo báo cáo của các địa phương, đã nâng cấp và xây dựng mới được gần 13.000 công trình hạ tầng và trên 7.000 mô hình sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Đến nay, bình quân mỗi xã đạt 7,87 tiêu chí, tăng 1,46 tiêu chí so với tháng 12 năm 2012.
- Công tác di dân tái định cư: Đã triển khai rà soát các khu vực dân cư bị đe dọa bởi thiên tai (sạt lở ven sông, ven biển, sạt lở, sụt lún đất), di dân tái định cư liên quan đến thủy lợi, thủy điện, di dân ra biên giới, hải đảo, ổn định dân di cư tự do. Đến nay, đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các khu tái định cư, hoàn thành di chuyển toàn bộ dân ra khỏi vùng ngập lòng hồ của nhà máy thủy điện Sơn La.
- Chương trình MTQG về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Được thực hiện tập trung ưu tiên ở các vùng, địa phương có tỷ lệ dân chưa được sử dụng nước hợp vệ sinh cao và vùng sâu, xa, nghèo. Ước hết năm 2013, tỷ lệ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 82%, tỷ lệ hộ nông dân có hố xí hợp vệ sinh đạt 60%.
7. Công tác quản lý chất lượng, vệ sinh ATTP tạo được sự chuyển biến tích cực
Trong ba năm gần đây, tăng cường quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp (VTNN), đảm bảo an toàn thực phẩm là nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành. Vì vậy, đã thực hiện được nhiều nhiệm vụ, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, an toàn vệ sinh thực phẩm.
Cơ chế, chính sách về quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm được xây dựng khá đồng bộ; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được quan tâm hơn với nhiều hình thức phong phú hơn; tiếp tục duy trì và triển khai các chương trình kiểm tra giám sát; xử lý kịp thời các sự cố mất ATTP. Đồng thời đã đẩy mạnh việc áp dụng các quy trình sản xuất tốt vào sản xuất, tăng cường công tác thanh tra.
Hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý chất lượng, ATTP nông lâm thủy sản từ Trung ương đến địa phương tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Uy tín về chất lượng nhiều loại nông sản nội địa được nâng cao.
8. Hoạt động khoa học công nghệ và đào tạo nhân lực đã được chấn chỉnh, tập trung phục vụ tái cơ cấu ngành
- Về khoa học công nghệ
Trong năm, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã triển khai thực hiện 381 đề tài và 67 dự án sản xuất thử nghiệm, 14 nhiệm vụ hợp tác quốc tế; đã có 25 giống cây trồng, 10 giống cây lâm nghiệp mới được công nhận. Trong lĩnh vực thủy sản đã tập trung nghiên cứu xử lý khá thành công dịch EMS trên tôm... Đã ban hành 32 Quy chuẩn, 49 Tiêu chuẩn Việt Nam. Tổ chức thực hiện 104 dự án khuyến nông chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất (trồng trọt 35 dự án, chăn nuôi thú y 22 dự án, khuyến ngư 25 dự án, khuyến lâm 14 dự án, khuyến công 8 dự án).
Bộ cũng đã rà soát điều chỉnh mạnh mẽ các đề tài nghiên cứu và khuyến nông, tập trung cao cho các nhiệm vụ trọng tâm.
- Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Năm 2013, các địa phương đã đào tạo được gần 170 ngàn lao động nông thôn học nghề nông nghiệp; tỷ lệ lao động nông nghiệp đã qua đào tạo đạt 3,6%, tăng 0,6% so với năm 2012.
- Hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế
Trong năm, Bộ đã ký kết 04 Hiệp định cấp Chính phủ và 10 thỏa thuận/bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thủy lợi và thủy sản; về ODA, đã đàm phán và làm thủ tục phê duyệt 18 chương trình/dự án với tổng vốn tài trợ trên 500 triệu USD (4 dự án vốn vay, 14 dự án hỗ trợ kỹ thuật). Bộ đã tích cực tham gia đàm phán các hiệp định tự do hóa thương mại; giải quyết các rào cản và tranh chấp thương mại nông sản có kết quả cụ thể, mở thêm thị trường cho nông sản Việt Nam, nhất là đối với thị trường Mỹ, Nhật, EU, Nga và Ucraina.
9. Các hình thức tổ chức sản xuất hiệu quả được tổ chức tổng kết, đánh giá và nhân rộng
Kinh tế tập thể có chuyển biến tích cực hơn. Các hình thức hợp tác, liên kết được tập trung nhân rộng. Bộ đã phối hợp các địa phương, ngành nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn.
Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nông, lâm trường quốc doanh được Bộ và các địa phương tiếp tục thực hiện.
10. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý ngành
- Công tác xây dựng văn bản pháp luật: Trong năm Bộ đã hoàn thiện, trình và được Quốc hội thông qua 02 Luật: Luật Phòng, chống thiên tai, Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật; trình Chính phủ ban hành 06 Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 Quyết định; Bộ trưởng đã ban hành theo thẩm quyền 49 Thông tư.
- Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính giai đoạn 2011-2015: Thực hiện rà soát thủ tục hành chính và hệ thống các văn bản quản lý trong các lĩnh vực làm cơ sở thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế quản lý. Thường xuyên tổ chức công tác giao ban trực tuyến giữa Bộ và các địa phương, các doanh nghiệp.
- Triển khai các cuộc thanh tra chủ động: Đã triển khai 24 cuộc thanh tra, kiến nghị thu hồi hơn 9 tỷ đồng, tập trung vào thanh tra chuyên ngành, thanh tra về VSATTP, thanh tra phòng chống tham nhũng; nghiêm túc thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống tham nhũng.
11. Tình hình triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành
Bộ đã ban hành Chương trình hành động và Chỉ thị thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013; tổ chức 02 hội nghị phổ biến, hướng dẫn triển khai Đề án tổng thể tới tất cả các đơn vị thuộc Bộ, các Sở Nông nghiệp và PTNT và nhiều hội nghị chuyên đề về nội dung này. Đến nay, đề án tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp, ngành Thủy sản đã được phê duyệt; đề án tái cơ cấu các lĩnh vực Thủy lợi, Chăn nuôi, Trồng trọt, Chế biến nông lâm thủy sản đang được khẩn trương hoàn thiện. Hầu hết các đơn vị thuộc Bộ đều đã có kế hoạch hành động, các Tổng công ty đã có Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp. Đã có 14/63 tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch hành động thực hiện Đề án.
Đánh giá chung
- Năm 2013, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, toàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có nhiều nỗ lực triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo chỉ đạo của Chính phủ, duy trì tăng trưởng hầu hết các ngành sản xuất, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đẩy mạnh xuất khẩu vừa đảm bảo lợi ích của nông dân vừa góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đồng thời chương trình xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh trở thành phong trào sâu rộng trong nước, góp phần tích cực xóa đói giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống của nông dân, ổn định xã hội. Năng lực sản xuất, độ che phủ rừng, năng lực thủy lợi; phòng chống thiên tai, năng lực hội nhập kinh tế quốc tế và năng lực quản lý ngành được nâng lên một bước tạo tiền đề thuận lợi cho quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn tới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trên, ngành nông nghiệp và PTNT vẫn còn những hạn chế,thách thức cần phải tập trung giải quyết trong năm 2014 và những năm sau, đó là:
- Tăng trưởng được duy trì và phục hồi vào cuối năm nhưng tính bền vững chưa cao và tính chung cả năm vẫn trong xu hướng chậm dần;
- Công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tuy đã tạo được sự chuyển biến nhưng chưa toàn diện và chưa đáp ứng yêu cầu vẫn là vấn đề gây nhiều bức xúc trong xã hội; tình trạng phá rừng trái phép, cháy rừng vẫn còn diễn ra gay gắt ở một số địa phương;
- Chương trình xây dựng nông thôn mới nhiều nơi thực hiện chậm, có nguy cơ chậm về đích theo yêu cầu, mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 7, Khóa X.
- Triển khai thực hiện Đề án Tái cơ cấu mới chỉ tập trung ở Bộ và các đơn vị trực thuộc; nhiều địa phương, đơn vị triển khai còn chậm, thiếu sự quan tâm đúng mức và còn lúng túng.
- Hệ thống quản lý nhà nước của ngành từ Trung ương đến địa phương, chưa hoàn thiện thông suốt và đồng bộ, ảnh hưởng đến hoạt động của ngành. Chỉ đạo điều hành thực hiện các nhiệm vụ của ngành có nơi có lúc thiếu quyết liệt, kém hiệu quả, nhất là các nhiệm vụ về quản lý chất lượng vật tư và đảm bảo an toàn thực phẩm.
Nguồn: Bộ NN&PTNT
Sưu tầm: Quốc Huy
Đang online | 2799 |
Hôm nay | 3205 |
Hôm qua | 3284 |
Tuần này | 3205 |
Tuần trước | 23137 |
Tháng này | 3777270 |
Tháng trước | 4969151 |
Tất cả | 48191446 |
Lượt truy cập: 48191448
Đang online: 2799
Ngày hôm qua: 3284
Phụ trách kỹ thuật: 0987. 008. 333