Ở nước ta, Xạ đen phân bố chủ yếu tại các tỉnh Sơn La, Hà Nam, Quảng Ninh, Quảng Bình, Hòa Bình, Vườn Quốc gia Cúc Phương, Vườn Quốc gia Ba Vì... mọc tự nhiên trong rừng. Xạ đen là cây thân gỗ mọc leo thành bụi, nhánh non tròn, không lông. Dài trung bình 5-7m có khi tới hàng chục mét, thân già vỏ nâu đốm trắng, chồi và lá non có màu tím đỏ [Nguyễn Khắc Hải và cs]. Xạ đen là cây thuốc nam quý mọc tự nhiên trong các khu rừng ở nước ta. Không chỉ có tác dụng y học, cây Xạ đen còn có giá trị về mặt kinh tế và đây cũng là cây trồng “xóa đói giảm nghèo” tăng thu nhập cho người dân ở một số huyện của tỉnh Hòa Bình. Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ cây thuốc nam Xạ đen rất rộng lớn [Nguyễn Khắc Hải và cs]. Tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về cây Xạ đen như: Lê Thế Trung và cs (1999) đã nghiên cứu về khả năng chữa ung thư của cây Xạ đen Hòa Bình; Nguyễn Huy Cương (2008) nghiên cứu thành phần hoá học và thăm dò hoạt tính sinh học cây Xạ đen; Nguyễn Thị Vân Khanh và cs (2007) đã có những kết quả ban đầu về nghiên cứu cấu trúc hoá học của các hợp chất phân lập từ lá cây Xạ đen (Ehretia asperula Zoll. & Mor.) và Trịnh Thị Thủy và cs (2008) cũng thực hiện đề tài nghiên cứu “Phân lập và xác định cấu trúc các hợp chất tritecpen từ xây Xạ đen”... Năm 1999, Xạ đen được công nhận là một trong số ít các vị thuốc chữa ung thư [Nguyễn Huy Cương, (2008),], [Nguyễn Kim Thanh, Nguyễn Thuận Châu (2005),], [Lê Thế Trung và cs (1999),], [Ning, Li và et (2012)]. Kết quả nghiên cứu đã bước đầu xác định trong cây Xạ đen có hoạt chất Fanavolnoid, Quinon có tác dụng phòng chống ung thư và làm cho tế bào ung thư hóa lỏng dễ tiêu; hợp chất Saponin Triterbenoid có tác dụng chống nhiễm khuẩn. Đây là một trong một số những hoạt chất rất quý hiếm mà ít thấy ở các cây thuốc như: Trinh nữ hoàng cung, cây hoàn ngọc hay cây thông đỏ… Xạ đen có tác dụng làm thuốc hỗ trợ điều trị ung thư vòm họng, ung thư dạ dày, ung thư phổi, ung thư trực tràng và nhiều căn bệnh ung thư khác Xạ đen đề có tác dụng hỗ trợ điều trị rất hiệu quả. Ngoài tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư cây Xạ đen còn ứng dụng vào điều trị một số bệnh khác như: cao huyết áp, dùng làm thuốc mát gan giải độc, hạ men gan; làm thuốc trị viêm, cầm máu; dùng uống hàng ngày để tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật và ngăn ngừa ung thư [Hoàng Quỳnh Hoa, Bùi Hồng Quang (2007)], [Hoàng Quỳnh Hoa (2010)], [Lê Thế Trung và cs (1999),], [Ning, Li và et (2012)]. Chính vì những giá trị quý của Xạ đen đã dẫn đến tình trạng khai thác quá mức, khiến cho số lượng quần thể cây trong tự nhiên giảm sút nghiêm trọng. Bên cạnh đó phương pháp nuôi trồng cây Xạ đen chủ yếu hiện nay là giâm hom cho số lượng cây giống còn hạn chế, mang nhiều bệnh từ cây mẹ [Nguyễn Khắc Hải và cs]. Phương pháp nhân giống in vitro-phương pháp nhân giống hiện đại là một trong các biện pháp hữu hiệu, giúp bảo tồn và phát triển nguồn giống thực vật nói chung và nguồn dược liệu nói chung, phục vụ cho nhu cầu của đời sống.
Trong bài bào này, chúng tôi trình bày kết quả thí nghiệm nhân nhanh in vitro cây Xạ đen bằng phương pháp in vitro. Đoạn thân non, bánh tẻ có chứa mắt ngủ có kích thước dài 2-3 cm được khử trùng bằng dung dịch dung dịch HgCl2 0,1% trong thời gian 7 phút cho tỷ lệ mẫu sống cao đạt 83,33%. Môi trường MS cơ bản thích hợp cho đoạn thân non và bánh tẻ tái sinh, tỷ lệ tái sinh đạt 100% sau 3 tuần nuôi cấy. Ở giai đoạn nhân nhanh bổ sung BA với nồng độ 3mg và TDZ 0,3mg/L vào môi trường MS cải tiến cho hệ số nhân nhanh chồi đạt 4,00 lần, chồi mập, xanh sau 4 tuần nuôi cấy. Ở giai đoạn ra rễ chúng tôi sử dụng môi trường MS bổ sung nồng độ IBA 0,3mg/L tỷ lệ ra rễ của cây xạ đen đạt 100%, số rễ /chồi đạt 4,5 rễ sau 4 tuần nuôi cấy, rễ đạt tiêu chuẩn ra cây ; Cây in vitro hoàn chỉnh sau khi huấn luyện được trồng trên giá thể với tỷ lệ sống sót 90%. Cây Xạ đen nuôi cấy mô thích hợp với môi trường giá thể tơi xốp, có khả năng giữ nước.
Trên đây là kết quả của nhóm nghiên cứu: Nguyễn Thị Tình, Phạm Thị thủy, Phạm Bằng Phương, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Bảo, Trần Trung Kiên, Ngô Xuân Bình Khoa Công nghệ Sinh học và Công nghệ Thực phẩm - trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đăng trên tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2015) 233-241
Một số hình ảnh nghiên cứu:
Tác giả: Nguyễn Thị Tình
Đăng tin: Bùi Đình Lãm
Đang online | 1662 |
Hôm nay | 673 |
Hôm qua | 3284 |
Tuần này | 673 |
Tuần trước | 23137 |
Tháng này | 3774738 |
Tháng trước | 4969151 |
Tất cả | 48188914 |
Lượt truy cập: 48188974
Đang online: 1699
Ngày hôm qua: 3284
Phụ trách kỹ thuật: 0987. 008. 333